Nghiên cứu: COVID làm tăng nguy cơ chấn thương não lâu dài
Những người bị nhiễm COVID có nguy cơ bị một loạt các tổn thương não một năm sau đó, cao hơn nhiều so với những người chưa bao giờ bị nhiễm virus corona, các nhà nghiên cứu Mỹ báo cáo hôm 22/9. Đây là một phát hiện có nguy cơ ảnh hưởng đến hàng triệu người dân Mỹ.
Nghiên cứu kéo dài một năm, được công bố trên tạp chí Nature Medicine hôm 22/9, đánh giá sức khỏe não bộ trong 44 chứng rối loạn khác nhau bằng cách sử dụng hồ sơ y tế không nhận dạng bệnh nhân từ hàng triệu cựu chiến binh Hoa Kỳ.
Những rối loạn về não bộ và các rối loạn thần kinh khác xảy ra nhiều hơn 7% ở những người đã bị nhiễm COVID so với một nhóm tương tự là những cựu chiến binh chưa từng bị nhiễm bệnh.
Nhóm nghiên cứu cho biết, điều đó có nghĩa là khoảng 6,6 triệu người Mỹ bị suy giảm chức năng não liên quan đến COVID .
“Các kết quả cho thấy tác hại lâu dài của COVID-19”, bác sĩ Ziyad Al-Aly của Trường Y Đại học Washington cho biết.
Ông Al-Aly cùng các đồng nghiệp tại Trường Y Đại học Washington và Hệ thống Chăm sóc Sức khỏe Cựu chiến binh St. Louis đã nghiên cứu hồ sơ y tế của 154,000 cựu chiến binh Hoa Kỳ có kết quả xét nghiệm dương tính với COVID từ ngày 01/3/2020 đến ngày 15/1/2021.
Họ so sánh những kết quả này với hồ sơ từ 5.6 triệu bệnh nhân không mắc COVID trong cùng khung thời gian và một nhóm khác gồm 5.8 triệu người từ giai đoạn ngay trước khi coronavirus xuất hiện tại Hoa Kỳ.
Ông Al-Aly cho biết các nghiên cứu trước đây xem xét một nhóm hẹp hơn các rối loạn và tập trung chủ yếu vào bệnh nhân nhập viện, trong khi nghiên cứu của ông bao gồm cả bệnh nhân nhập viện và không nhập viện.
Suy giảm trí nhớ (Dementia), thường được gọi là hội chứng sương mù não (Brain Fog), là triệu chứng phổ biến nhất. So với nhóm đối chứng, những người bị nhiễm COVID có nguy cơ phát triển các vấn đề về trí nhớ cao hơn 77%.
Những người bị nhiễm virus cũng có nguy cơ bị đột quỵ do thiếu máu cục bộ vì các cục máu đông cao hơn 50% so với nhóm chưa bao giờ bị nhiễm virus.
Những người nhiễm COVID có nguy cơ bị co giật cao hơn 80%, có các vấn đề sức khỏe tâm thần như lo lắng hoặc trầm cảm cao hơn 43%, đau đầu cao hơn 35% và có nguy cơ bị rối loạn vận động, chẳng hạn như run, cao hơn 42% so với các nhóm đối chứng.
Các nhà nghiên cứu đề nghị các chính phủ và hệ thống y tế phải đưa ra kế hoạch cho một thế giới hậu COVID.
Các chuyên gia nhận định, các chính phủ và hệ thống y tế nên tính đến những phát hiện rằng SARS-CoV-2 dẫn đến hậu quả lâu dài về thần kinh (cùng các hậu quả nghiêm trọng khác) và đề ra chính sách để tiếp tục quản lý đại dịch này và phát triển các kế hoạch cho một thế giới hậu đại dịch.
Một số rối loạn thần kinh được báo cáo ở đây là tình trạng mãn tính nghiêm trọng sẽ ảnh hưởng đến một số người suốt đời. Những tình trạng này đòi hỏi phải được xác định và chăm sóc sớm để giảm nguy cơ dẫn đến các kết quả bất lợi về sau.
Gánh nặng do hậu quả của việc nhiễm SARS-CoV-2 có thể sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng không chỉ đến chất lượng cuộc sống và tuổi thọ của bệnh nhân mà còn về hệ thống y tế và năng suất kinh tế. Những điều này cũng có nguy cơ làm gia tăng bất bình đẳng trong xã hội.
Các nhà khoa học khuyến cáo, chúng ta bắt buộc phải nhận ra những thách thức to lớn do đại dịch đặt ra và tất cả những hậu quả về lâu về dài.
Ông Al-Aly nói: “Với quy mô khổng lồ của đại dịch, việc đối mặt với những thách thức này đòi hỏi sự khẩn cấp và có sự phối hợp – nhưng cho đến nay vẫn vắng bóng – các chiến lược ứng phó toàn cầu, quốc gia và khu vực”. (T/H, NTD)