Thursday, April 18, 2024

Nhân Quyền

The Vietnamese Newspaper

TQ làm cho VN sợ hãi bị bao vây từ các láng giềng


ASIA TIMES by DAVID HUTTSEPTEMBER 13, 2022

Sự can dự ngày càng tăng của Trung Quốc vào Campuchia và Lào đang chuyển trọng tâm chiến lược của nước láng giềng với Việt Nam từ đường biển sang đất liền

Với đường bờ biển dài 3,200 km, dường như sẽ rất khó để cảm thấy ngột ngạt. Nhưng Việt Nam, nước đã giao tranh với Trung Quốc trong nhiều thập kỷ qua các vùng biên giới và lãnh thổ tranh chấp ở Biển Đông, giờ đây phải đối mặt với viễn cảnh bị bao vây bởi nước láng giềng khổng lồ phía Bắc.

Trong nhiều thiên niên kỷ, Việt Nam đã bị Trung Quốc xâm lược từ phía bắc qua đường biên giới chung dài 1.297 km. Cuộc chiến cuối cùng mà hai đối thủ lịch sử đã chiến đấu vào những năm 1980, được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba, đã chứng kiến ​​các lực lượng Trung Quốc tiến hành nhiều cuộc xâm lược biên giới.

Về phía đông của Việt Nam, Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa trong nhiều thập kỷ và đã quân sự hóa khoảng bảy thực thể ở Biển Đông. Việc chuyển đổi giữa tàu cá của họ và lực lượng dân quân trên biển là thường xuyên và phổ biến.

Hà Nội cho rằng Bắc Kinh đang dùng chiến thuật cắt miếng salami để kiểm soát toàn bộ khu vực biển. Sách Trắng Quốc phòng mới nhất của họ, được phát hành vào năm 2019, tuyên bố rằng “sự cạnh tranh giữa các cường quốc đang ngày càng trở nên căng thẳng” trong khi Biển Đông có thể trở thành một “điểm bùng phát”.

Khả năng tệ hơn cho Việt Nam với các thông tin dai dẳng rằng Campuchia, nước láng giềng phía Tây, có thể cho phép Trung Quốc đóng quân tại Căn cứ Hải quân Ream, mở ra Vịnh Thái Lan và có khả năng cung cấp cho Trung Quốc một sườn phía nam trên Biển Đông.

Ngay cả khi điều đó không có nghĩa là có sự hiện diện quân sự thường trực của Trung Quốc – điều mà Phnom Penh kiên quyết khẳng định là không có – thì một lực lượng nhỏ hoạt động luân phiên có thể được Bắc Kinh sử dụng để giám sát các lực lượng hải quân của Việt Nam, hầu hết đều đóng ở gần đó.

Các nhà hoạt động Việt Nam tổ chức một cuộc biểu tình hiếm hoi chống Trung Quốc ở Việt Nam. Hình Facebook

Bất kỳ sự hiện diện quân sự nào của Trung Quốc ở Campuchia hoặc Lào, một đồng minh khác của Bắc Kinh, sẽ khiến Việt Nam bị đe dọa từ phía tây và nam.

“Những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm lôi kéo các nước láng giềng của Việt Nam, Campuchia và Lào, bằng phần thưởng kinh tế cũng nguy hiểm đối với Hà Nội như những hành động gây bất ổn của họ ở [Biển Đông]”, Khang Vũ, một nghiên cứu sinh tiến sĩ Khoa Khoa học Chính trị tại Đại học Boston, gần đây đã viết qua một bài đăng trên các phương tiện truyền thông khu vực.

 “Việt Nam bị Trung Quốc bao vây trên bốn mặt chỉ có nghĩa một điều, đó là Trung Quốc đang đặt ra một mối đe dọa toàn diện đối với Việt Nam trên cả đất liền và trên biển,” ông nói với Asia Times.

Ông Vũ cho rằng Việt Nam có hai lựa chọn để phá vỡ vòng vây đang nổi lên này. Hoặc họ phải tìm kiếm hợp tác quốc phòng mạnh mẽ hơn với Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ, hoặc có thể tăng cường sức mạnh quân sự của riêng mình mà không cần liên minh chính thức để đảm bảo rằng “Trung Quốc không gây ra mối đe dọa cho sự tồn vong của họ”.

Mặc dù Hải quân Hoa Kỳ không xa lạ với các cảng của Việt Nam, song Hà Nội cho đến nay vẫn tránh bất kỳ liên minh quân sự trực tiếp nào với bất kỳ đối tác nào. Cả hai bên đều đã sẵn sàng nâng cấp quan hệ lên “quan hệ đối tác chiến lược” vào năm 2019 nhưng không thành công. Một phần là do chính sách lịch sử “ba không” của Việt Nam, gần đây đã được mở rộng thành “bốn không”.

Sách Trắng Quốc phòng mới nhất viết rằng “Việt Nam nhất quán chủ trương không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, đứng về phía nước này chống lại nước khác, cho phép bất kỳ nước nào khác thiết lập căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của chúng ta để thực hiện các hoạt động quân sự của mình chống lại các nước khác, cũng như không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Tuy nhiên, Sách Trắng cũng nêu thêm một lưu ý quan trọng: “Tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ xem xét phát triển các mối quan hệ quốc phòng và quân sự cần thiết, phù hợp với các nước khác”.

Derek Grossman, nhà phân tích quốc phòng cấp cao tại RAND Corporation, hồi đầu năm nay lập luận rằng “Chính sách đối ngoại không liên kết của Hà Nội kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc có nghĩa là Trung Quốc có thể tấn công mà không sợ bị các quốc gia mạnh hơn trả đũa”.

Do chính sách “bốn không”, Việt Nam có thể sẽ áp dụng phương án thứ hai là trung lập vũ trang, ông Vũ viết.

“Các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Việt Nam nhận thức rõ về sức mạnh quân sự và năng lực công nghệ ngày càng tăng của Trung Quốc,” theo Carl Thayer, giáo sư danh dự tại Đại học New South Wales, Úc. “Họ có quan điểm lạc quan về vị trí chiến lược của mình; nói cách khác, cái gọi là bao vây Việt Nam của Trung Quốc đưa ra cả cơ hội và thách thức”.

Vào tháng 2 năm 2021, Thayer lưu ý, Đảng Cộng sản cầm quyền đã thông qua một nghị quyết khởi xướng “chương trình hiện đại hóa các lực lượng vũ trang của Việt Nam có tham vọng và sâu rộng nhất”.

Trong đó kêu gọi thành lập một Quân đội Nhân dân Việt Nam “tinh gọn và mạnh mẽ” vào năm 2025, cũng như hiện đại hóa một số bộ phận của lực lượng vũ trang vào năm 2030. Hiện đại hóa các phần còn lại của quân đội sẽ được thực hiện sau đó.

Các nhà phân tích nhận định, Việt Nam sẽ phải đối mặt với hai thách thức lớn trong việc đạt được các mục tiêu này. Trước tiên, nước này phải duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao để tài trợ cho các hoạt động mua sắm vũ khí của mình, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến công nghệ tiên tiến.

Một người lính Việt Nam canh gác trước hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ USS Carl Vinson sau khi cập cảng Đà Nẵng, Việt Nam ngày 5 tháng 3 năm 2018. Hình Agencies

Theo Ngân hàng Thế giới, chi tiêu quân sự của Việt Nam đã giảm từ 7.9% GDP vào năm 1990, vào cuối cuộc chiến cuối cùng với Trung Quốc, xuống còn khoảng 2.3% vào cuối những năm 2010.

Nhưng, về mặt thực tế, nước này đã chi 5.7 tỷ USD cho quốc phòng vào năm 2018, tăng từ 3.6 tỷ USD năm 2010, theo Cơ sở Dữ liệu Chi tiêu Quân sự SIPRI.

Tuy nhiên, gần đây Hà Nội đã cam kết giảm chi tiêu nhà nước do lo ngại nợ nần chồng chất. Sự thắt chặt ngân sách rộng rãi đó sẽ đưa ra những lựa chọn khó khăn cho Hà Nội trong việc phân bổ chi tiêu quốc phòng trong tương lai.

Ngay cả khi chi khoảng 3% GDP cho quốc phòng (tức khoảng 6.3 tỷ USD mỗi năm), thì con số đó cũng chỉ chiếm 2.5% so với những gì Trung Quốc hiện chi cho quân sự hàng năm.

Thứ hai, nước này sẽ cần phải thận trọng để tránh các lệnh trừng phạt của Mỹ nếu quyết định tiếp tục mua sắm vũ khí từ Nga, nhà cung cấp thiết bị quân sự chính có từ thời Chiến tranh Lạnh.

Từ năm 1995 đến năm 2021, tổng nhập khẩu vũ khí của Việt Nam đạt 9.07 tỷ đô la, trong đó Nga chiếm 7.4 tỷ đô la, hay 81.6% tổng số, theo SIPRI.

Các chiến sĩ diễu hành trong lễ kỷ niệm Quốc khánh tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Hình Twitter

Tuy nhiên, Hà Nội có thể phải đối mặt với một thách thức lớn hơn. Trong nhiều thập kỷ, chính sách quốc phòng của Việt Nam chủ yếu tập trung vào biển.

Theo một nguồn thạo tin về các cuộc tranh luận của Bộ Quốc phòng Việt Nam, ngày càng có nhiều nhận thức rằng Việt Nam cần phải chuyển một phần trọng tâm từ phòng thủ trên biển sang đất liền.

Đầu năm 2021, các báo cáo cho biết Trung Quốc đang xây dựng một căn cứ tên lửa đất đối không cách biên giới với Việt Nam 20 km.

Có hiệu lực vào tháng 1, luật biên giới trên bộ mới của Trung Quốc tìm cách tăng cường kiểm soát và bảo vệ biên giới của nước này. Bắc Kinh sẽ “kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh biên giới trên bộ”, theo điều luật. Tuy nhiên, các nhà phân tích thấy trước một nỗ lực gia tăng sức mạnh của Trung Quốc để giải quyết các tranh chấp biên giới theo các điều khoản ưu tiên của họ.

Từ quan điểm của Việt Nam, phần lớn sự mất mát sẽ đến từ Campuchia và Lào. Theo một số nhà bình luận, Việt Nam đã “mất” đồng minh cũ ở Campuchia.

Sự hỗ trợ quân sự của Việt Nam vào năm 1979 để lật đổ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ của Campuchia, một đồng minh của Bắc Kinh, đã châm ngòi cho Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba. Campuchia vẫn kiên quyết ủng hộ Việt Nam cho đến đầu những năm 2000 khi Bắc Kinh bắt đầu phát triển quan hệ với Phnom Penh.

“Sự định hướng lại sau Chiến tranh Lạnh của Việt Nam đối với [Biển Đông] dựa trên tiền đề là biên giới trên bộ đã được bảo đảm. Nhưng các động thái của Trung Quốc để giành được Lào và Campuchia về phía mình khiến nước này nên chuyển trọng tâm về phía đất liền,” Vũ lập luận.

Hà Nội đang tăng cường giao lưu với các nước láng giềng phía Tây. Thủ tướng Campuchia Hun Sen và Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã ký các thỏa thuận hợp tác mới về an ninh và quốc phòng trong cuộc gặp vào tháng 12 năm ngoái.

“Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh dựa trên nguyên tắc không cho phép bất kỳ thế lực thù địch nào sử dụng lãnh thổ của mình để gây tổn hại đến an ninh của bên kia”, hai nhà lãnh đạo cho biết trong một tuyên bố chung.

Vào tháng 5 năm nay, Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia và Việt Nam Tea Banh và Phan Văn Giang lần đầu tiên tổ chức giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới tại Hà Nội.

Việt Nam cũng đã tăng đầu tư vào Campuchia và thương mại song phương đạt gần 9 tỷ đô la vào năm ngoái, đánh dấu mức tăng 80% so với năm 2020. Thương mại của Campuchia với Trung Quốc trị giá 11 tỷ đô la vào năm ngoái.

Tương tự, Việt Nam cũng đang bận rộn cải cách quan hệ với Lào, một đồng minh lịch sử khác. Hà Nội đã cam kết tài trợ để xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng mới trên đất liền, bao gồm một tuyến đường sắt được đề xuất sẽ kết nối Viêng Chăn với thành phố cảng Vũng Áng của Việt Nam.

Làm mới mối quan hệ với Campuchia và Lào là chìa khóa cho cách tiếp cận an ninh mới nổi của Việt Nam, các nhà phân tích nói. Một số người cho rằng cuộc tranh giành ảnh hưởng của Hà Nội và Bắc Kinh ở Phnom Penh và Vientiane có thể định hình địa chính trị lục địa Đông Nam Á trong những năm tới.

“Cái gọi là luận điểm bao vây cho rằng Trung Quốc và Việt Nam coi nhau là đối thủ thích hợp nhất và kẻ thù tồi tệ nhất, khiến Việt Nam không còn lựa chọn nào khác ngoài việc liên kết với Hoa Kỳ. Tình hình phức tạp hơn nhiều,” Thayer nói.

Việt Nam cũng có lịch sử thích ứng lâu đời.

“Việt Nam đã sống chung với mối đe dọa từ Trung Quốc hàng ngàn năm mà không cần nhờ đến sự trợ giúp từ một cường quốc bên ngoài, vì vậy họ có kinh nghiệm trong việc tìm ra cách tự cân bằng giữa hai xu hướng mâu thuẫn: đảm bảo độc lập khỏi Trung Quốc trong khi không cùng lúc chọc giận nước này,” theo Vũ.

“Đó là do Việt Nam gặt hái được nhiều lợi ích từ mối quan hệ thân tình với siêu cường phương Bắc hơn là một mối quan hệ thù địch. Vũ trang trung lập có vẻ là lựa chọn tốt hơn trong trường hợp này,” Vũ nhận xét thêm. (T/H, basam)