Wednesday, December 4, 2024

Nhân Quyền

The Vietnamese Newspaper

Cuộc Vận Động Ngoại Giao Cuối Cùng Trước Ngày 30-4-1975


Trong chiến tranh vừa qua ở Việt Nam (1954-1975), quân đội cộng sản Bắc Việt Nam tấn công mạnh mẽ khắp nơi vào đầu năm 1975, tiến chiếm Vùng I Chiến thuật, rồi vùng II Chiến thuật của Việt Nam Cộng Hòa, và xua quân đe dọa thủ đô Sài Gòn.  (Điều nầy đã được viết nhiều, xin không trình bầy lại ở đây).

Cuộc Di Tản ngày 30 tháng 4, 1975.

Tình hình quân sự đang dồn dập ngoài mặt trận, thì một cuộc vận động ngoại giao quốc tế âm thầm diễn ra, nhằm tránh sự sụp đổ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ở Nam Việt Nam. Tích cực trong việc nầy là hai chính phủ Pháp và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa… 

Pháp là nước có nhiều liên hệ với Việt Nam trong quá khứ.  Điều nầy người Việt nào hầu như cũng đều biết, vì Pháp đã từng bảo hộ Việt Nam từ năm 1884 đến khi quân đội Nhật Bản đảo chánh Pháp ở Đông Dương ngày 9-3-1945. 

Còn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, chẳng xa lạ gì với người Việt, nhứt là người miền Bắc Việt Nam, vì nước Trung Hoa nằm sát biên giới Bắc Việt Nam và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa có nhiều liên hệ với chế độ Bắc Việt Nam.  

Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa theo chủ nghĩa cộng sản, nên còn được gọi là Trung Cộng, đã tích cực viện trơ, gởi cố vấn giúp đảng Cộng Sản Đông Dương từ năm 1950 trong cuộc chiến 1946-1954, và trong cuộc chiến cộng sản Bắc Việt Nam xâm lăng Nam Việt Nam. (Đảng Cộng Sản Đông Dương đổi tên thành đảng Lao Động năm 1951.) (Từ đây xin gọi là Trung Cộng cho ngắn gọn, dễ viết). 

Xin chú ý là Trung Cộng, đã viện trợ cho BVN để tấn công NVN, “chống Mỹ cứu nước”, không phải hoàn toàn vô vị lợi vì tình nghĩa cộng sản quốc tế với nhau, mà chính là vì hai lẽ:  1) Trung Cộng lo ngại rằng quân đội Hoa Kỳ hiện diện ở Nam Việt Nam, có thể gây nguy hại đến an ninh biên giới phía nam của Trung Cộng. 2) Khi Lưu Thiếu Kỳ, chủ tịch Trung Cộng, gởi La Quý Ba qua làm cố vấn cho Hồ Chí Minh tháng 01-1950, Lưu Thiếu Kỳ dặn La Quý Ba hãy giúp đỡ tối đa cho nhu cầu của đảng Cộng Sản Việt Nam, rồi sẽ đòi lại trong tương lai. (Qiang Zhai, China and the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tr. 19). 

Nhu thế, có nghĩa là không có việc Trung Cộng cho không, biếu không, mà Trung Cộng chỉ cho cộng sản Bắc Việt Nam vay mượn dài hạn, và còn có lãi, vì cộng sản Bắc Việt Nam trở thành tên lính tiền phương bảo vệ biên giới phía nam cho Trung Cộng. 

Vào tháng 2-1972, tổng thống Hoa Kỳ là Richard Nixon thăm Bắc Kinh và ký thông cáo chung Thượng Hải với thủ tướng Trung Cộng là Châu Ân Lai ngày 28-2-1972, theo đó hai bên chấp nhận sống chung hòa bình giữa các nước không cùng chế độ chính trị, và Hoa Kỳ xác nhận chỉ có một nước Trung Hoa, còn hải đảo Đài Loan là một phần của Trung Hoa.  Điều nầy chẳng những làm cho Trung Cộng yên tâm, mà còn đánh thức con sư tử đang ngủ ở Đông Á đã từng được hoàng đế nước Pháp là Napoléon Bonaparte báo trước vào thế kỷ 19.Sau hiệp định Paris ngày 27-1-1973, Hoa Kỳ đưa hết quân đội Hoa Kỳ về nước, thì Trung Cộng cũng rút quân đội Trung Cộng ra khỏi Bắc Việt Nam. Trong khi đó, vào đầu năm 1975, Liên Xô tăng viện cho Bắc Việt Nam gấp bốn (4) lần so với trước để tấn công Nam Việt Nam.(Henry Kissinger, Years of Renewal, New York: Simon & Schuster, 1999, tr. 481) . 

Trước tình hình nầy, Trung Cộng lại quan ngại rằng một khi Bắc Việt Nam chiếm được Nam Việt Nam, thì cộng sản Việt Nam sẽ rất mạnh, và trở thành vừa là đồng minh, vừa là vệ tinh của Liên Xô.  Khi đó cộng sản Việt Nam có thể sẽ theo phe Liên Xô, đe dọa biên giới phía nam của Trung Cộng.  

Vì vậy Trung Cộng không muốn Bắc Việt Nam chiếm được Nam Việt Nam, nên Trung Cộng tích cực tham gia vận động ngoại giao, nhằm chận đứng việc nầy, và giữ cho Việt Nam Cộng Hòa khỏi bị sụp đổ. (George J. Veith, Drawn Swords in a Distant Land, New York: Encounter Books, 2021, tt.555-556). 

Trung Cộng thật ra đã đề phòng điều nầy từ trước, có thể ngay từ khi bắt đầu xảy ra xích mính giữa Liên Xô với Trung Cộng, nhứt là khi hai bên thực sự đánh nhau trên sông Ussouri (Ô Tô Lý), vùng biên giới phía bắc của Trung Cộng với Liên Xô vào năm 1969. Trung Cộng lo ngại cộng sản Việt Nam về hùa với Liên Xô, sẽ đe dọa vùng biên giới phía nam của Trung Cộng với Việt Nam.

Trong cuộc gặp gỡ với đại diện Hoa Kỳ là Alexander Haig năm 1972 tại Bắc Kinh, thủ tướng Trung Cộng là Châu Ân Lai đã dặn dò Haig rằng: “Đừng để thua ở Việt Nam.”  Theo ngoại trưởng Alexander Haig, Trung Cộng quan ngại rằng Hoa Kỳ thất bại và rút lui khỏi Đông Nam Á, là điều nguy hiểm cho Trung Cộng. (George J. Veith, sđd., tr.. 557). 

Chẳng những thế, theo cựu phó tổng thống Việt Nam Cộng Hòa là Nguyễn Cao Kỳ, Trung Cộng còn cử đại diện tiếp xúc với ông Kỳ tại Sài Gòn vào cuối năm 1972, đề nghị ông Kỳ đảo chánh tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, rồi ông Kỳ tuyên bố Nam Việt Nam trung lập, không theo Hoa Kỳ và cũng không theo Liên Xô.  Nếu cựu phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ chịu làm như vậy, thì Trung Cộng sẽ ủng hộ ông Kỳ.  Trung Cộng chủ trương như thế vì Trung Cộng đang gặp rắc rối ở biên giới phía bắc với Liên Xô, nên Trung Cộng không muốn ở phía nam Trung Cộng, có một vệ tinh của Liên Xô chiếm đóng toàn bộ Việt Nam, sẽ trở nên quá mạnh và có thể đe dọa Trung Cộng. (George J. Veith, sđd. tr. 557). 

Sau trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974, khi trả tù binh Việt Nam Cộng Hòa về nước qua đường Hồng Kông, Trung Cộng đề nghị với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa mở một cuộc họp giữa hai bên, nhưng chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không trả lời.  Một thời gian sau, vào mùa hè 1974, Trung Cộng nhờ người nói chuyện lần nữa với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, nhưng người nầy lại trình bày với đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn lúc đó là Graham Martin, và đại sứ Martin im lặng luôn. (George J. Veith, sđd. tr. 557). 

Cựu đại tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống vào ngày 28-4-1975. Trung Cộng và Pháp một lần nữa vận động với cựu đại tướng Minh hãy kêu gọi sự giúp đỡ của một “lực lượng quốc tế” để giải quyết cuộc tranh chấp, nhưng cựu đại tướng Minh từ chối, và nói rằng: “…Trong đời tôi, tôi đã phục vụ như kẻ tay sai của Pháp, rồi kẻ tay sai của Mỹ. Đủ rồi, tôi không muốn làm tay sai lần nữa.” (Nguyên văn bằng Anh ngữ trong sách “… During my life I have already served as a lackey for the French and then as a lackey for the Americans.  That is enough, I do not want to be a lackey again.” .(George J. Veith, sđd. tr. 560). 

Câu chuyện lịch sử trên đây được tiến sĩ George J. Veith ghi lại theo tài liệu của thư khố, chứ không phải những người trong cuộc kể lại.  

Chúng tôi xin trình thuật để cùng nhau suy nghĩ nhân ngày 30-4 năm nay.  Xin luôn luôn ghi nhớ công ơn những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã anh dũng chiến đấu, hy sinh bảo vệ nền tự do dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa ở Nam Việt Nam. 

TRẦN GIA PHỤNG

(Texas, 26-4-2022)