HẬU-COVID: Bài học lịch sử về tình hình kinh tế –xã hội hậu đại dịch
Nguồn: “What history tells you about post-pandemic booms”, the Economist, 25/4/2021.
Biên dịch: Nguyễn Thanh Hải
Vào đầu những năm 1830, đại dịch tả gây ra thiệt hại nặng nề cho nước Pháp. Chỉ trong vòng một tháng, nó đã cướp đi sinh mạng của gần 3% dân số thủ đô Paris, các bệnh viện rơi vào tình trạng quá tải và các bác sĩ thì lúng túng trước căn bệnh mới này. Đại dịch chấm dứt đã thúc đẩy sự phục hồi kinh tế với việc Pháp theo chân Anh bước vào kỷ nguyên cách mạng công nghiệp. Nhưng đối với những ai đã đọc tác phẩm Les Misérables (Những người khốn khổ) thì sẽ biết rằng đại dịch này cũng góp phần thúc đẩy một cuộc cách mạng khác. Người nghèo trong thành phố, đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong đại dịch, tỏ ra rất bất bình với thành phần giàu có, những kẻ chỉ biết trốn chạy về các vùng quê để tránh lây nhiễm bệnh. Pháp lâm vào vòng xoáy bất ổn chính trị suốt nhiều năm sau đó.
Ngày nay, trong khi Covid-19 vẫn hoành hành ở những nước nghèo thì các quốc gia giàu có đang đứng trước ngưỡng của một đợt bùng nổ kinh tế hậu đại dịch. Khi việc tiêm chủng đã phát huy tác dụng, số ca nhập viện và tử vong do Covid-19 đều giảm, chính phủ các nước đang dỡ bỏ lệnh cách ly tại nhà và nới lỏng những quy định về giao tiếp nơi công cộng. Nhiều chuyên gia dự báo cho rằng nền kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng khoảng 7% trong năm nay, nhanh hơn khoảng 5 điểm phần trăm so với xu hướng trước đại dịch chỉ hơn 2%. Các quốc gia khác cũng có tốc độ tăng trưởng nhanh đáng kinh ngạc (xem Biểu đồ 1).
The Economist đã phân tích dữ liệu GDP của các nền kinh tế G7 từ năm 1820 và thấy rằng sự tăng trưởng nhanh một cách đồng bộ như vậy là rất hiếm khi xảy ra nếu nhìn vào xu hướng chung. Lần gần đây nhất người ta thấy hiện tượng này là trong thời kỳ bùng nổ hậu thế chiến những năm 1950.
Tình hình khác thường hiện tại khiến các nhà kinh tế khá bối rối và họ phải lật lại lịch sử để hiểu những gì sẽ xảy ra tiếp theo.
Các ghi chép cho thấy rằng, sau những thời kỳ gián đoạn phi tài chính lớn như chiến tranh hay đại dịch, GDP có xu hướng phục hồi trở lại. Bên cạnh đó, nó còn cho chúng ta thêm ba bài học nữa. Thứ nhất, trong khi mọi người muốn ra ngoài và chi tiêu thì sự không chắc chắn hay bấp bênh vẫn sẽ tồn tại trong một thời gian. Thứ hai, đại dịch thúc đẩy người dân và doanh nghiệp thử nghiệm những phương thức sản xuất mới, có thể làm đảo lộn cấu trúc của nền kinh tế. Thứ ba, như tác phẩm Les Misérables đã đề cập, những biến động chính trị thường xảy ra sau đó với hậu quả kinh tế khó lường.
Trước tiên là xét đến việc chi tiêu của người tiêu dùng. Dữ liệu từ những đại dịch trước cho thấy rằng trong giai đoạn nguy cấp, phản ứng của mọi người giống như những gì đã diễn ra trong năm vừa qua khi Covid-19 hoành hành: tích lũy tiền khi các cơ hội chi tiêu biến mất và việc đầu tư gặp nhiều rủi ro.
Trong nửa đầu những năm 1870, khi dịch bệnh đậu mùa bùng phát, tỷ lệ tiết kiệm của các hộ gia đình ở Anh đã tăng gấp đôi. Vào thời điểm diễn ra Thế chiến I, tỷ lệ tiết kiệm ở Nhật Bản cũng tăng hơn hai lần. Giai đoạn 1919-1920, đợt bùng phát của dịch cúm Tây Ban Nha, người Mỹ đã tích trữ nhiều tiền mặt hơn bất kỳ giai đoạn nào sau đó cho đến tận Thế chiến II. Khi chiến tranh nổ ra, một lần nữa tiết kiệm lại tăng lên, các hộ gia đình tích lũy thêm số tiền trong giai đoạn 1941-1945 trị giá khoảng 40% GDP.
Lịch sử cũng cho chúng ta thấy những gì mọi người sẽ làm khi cuộc sống trở lại bình thường. Chi tiêu tăng lên khiến cho thị trường lao động phục hồi, nhưng không có nhiều bằng chứng về việc chi tiêu quá mức. Quan niệm phổ biến cho rằng mọi người thường ăn mừng sự chấm dứt của Cái chết đen bằng “việc thác loạn” và “ăn chơi quá độ”, như quan điểm của một số nhà sử học, (có lẽ) là không đúng.
Những năm 1920 đã không còn nghe thấy tiếng reo hò ăn mừng nữa, ít nhất là vào giai đoạn đầu. Trong đêm giao thừa năm 1920, khi mối đe dọa từ dịch cúm Tây Ban Nha đã lùi vào dĩ vãng, “đại lộ Broadway và quảng trường Thời Đại trở lại giống như ngày trước hơn”, theo một nghiên cứu, mặc dù cảm giác về “một quốc gia ốm yếu và mệt mỏi” vẫn bao trùm khắp nước Mỹ.
Một bài báo gần đây của ngân hàng Goldman Sachs ước tính rằng trong giai đoạn 1946-1949, người tiêu dùng Mỹ chỉ chi khoảng 20% số tiền tiết kiệm dư thừa của mình. Khoản chi tiêu tăng thêm đó chắc chắn đã thúc đẩy sự bùng nổ kinh tế sau chiến tranh, dù vậy các báo cáo “tình hình kinh doanh” hàng tháng của chính phủ vào cuối những năm 1940 vẫn chứa đầy nỗi lo về sự suy giảm sắp xảy đến (và thực tế là nền kinh tế đã đi vào suy thoái trong giai đoạn 1948-49). Lượng bia tiêu thụ đã giảm trong những năm đó. Hành vi thận trọng của người tiêu dùng có thể là một lý do giải thích việc rất ít bằng chứng lịch sử cho thấy đại dịch đã làm lạm phát gia tăng (xem Biểu đồ 2).
Bài học lớn thứ hai mà ta biết từ sự bùng nổ kinh tế sau đại dịch liên quan đến “phía cung” của nền kinh tế – hàng hóa và dịch vụ được sản xuất như thế nào và ở đâu.
Mặc dù nhìn chung mọi người dường như ít quan tâm đến các thú vui tiêu khiển sau đại dịch, một số người vẫn sẵn sàng thử những cách kiếm tiền mới. Các nhà sử học tin rằng Cái chết đen đã khiến người châu Âu thích phiêu lưu mạo hiểm hơn. Khi mà ở quê nhà đã có rất nhiều người chết thì việc chất đồ đạc lên một con tàu và ra khơi đến những vùng đất mới dường như ít rủi ro hơn.
Apollo’s Arrow – Mũi tên của thần Apollo, một cuốn sách ra mắt gần đây của tác giả Nicholas Christakis thuộc Đại học Yale, cho thấy rằng sau đại dịch cúm Tây Ban Nha là “sự gia tăng của các hoạt động chấp nhận rủi ro”. Thật vậy, một nghiên cứu của Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Hoa Kỳ (NBER) công bố vào năm 1948 cho thấy rằng số lượng các công ty khởi nghiệp đã bùng nổ kể từ năm 1919. Ngày nay, tại những quốc gia giàu có, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới một lần nữa lại bùng lên khi các doanh nhân tìm cách lấp đầy khoảng trống trên thị trường.
Một số nhà kinh tế khác thì rút ra được mối liên hệ giữa đại dịch và một thay đổi khác ở phía cung của nền kinh tế: việc ứng dụng công nghệ để giảm thiểu số lao động. Chủ doanh nghiệp có thể muốn hạn chế sự lây lan của dịch bệnh và các robot thì không bao giờ bị ốm. Các chuyên gia tại IMF đã tiến hành nghiên cứu một số đợt bùng phát dịch bệnh gần đây, bao gồm cả Ebola và SARS, và phát hiện ra rằng “các trận đại dịch đã thúc đẩy việc ứng dụng robot, đặc biệt là khi nó tác động nghiêm trọng đến sức khỏe và có khả năng gây ra suy thoái kinh tế”.
Trong những năm 1920, tự động hóa diễn ra nhanh chóng tại Mỹ, đặc biệt là ở ngành viễn thông, và đây lại là công việc phổ biến nhất của phụ nữ trẻ Mỹ vào đầu thế kỷ 20. Những người khác thì rút ra mối liên hệ giữa Cái chết đen và máy in do Johannes Gutenberg sáng chế. Có rất ít bằng chứng xác thực về sự gia tăng tự động hóa nhờ Covid-19, mặc dù người ta vẫn nghe được nhiều câu chuyện về sự xuất hiện của robot.
Tuy nhiên, tự động hóa có lấy đi việc làm của con người hay không lại là một vấn đề khác. Và một số nghiên cứu cho thấy rằng trên thực tế công nhân còn làm việc tốt hơn sau đại dịch. Một nghiên cứu của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chi nhánh San Francisco (FRB SF) công bố hồi năm ngoái cho thấy mức lương thực tế có xu hướng tăng lên. Trong một số trường hợp, hiện tượng này xảy ra thông qua một cơ chế khá ghê rợn: bệnh dịch làm nhiều người lao động thiệt mạng khiến những người sống sót ở vị thế tốt hơn khi tiến hành thương lượng tiền lương.
Tuy nhiên, trong những trường hợp khác, lương tăng là hệ quả của những thay đổi chính trị – bài học lớn thứ ba từ các thời kỳ bùng nổ kinh tế trong lịch sử. Khi mà tất cả mọi người phải gánh chịu một tai họa nào đó, thì những người thuộc tầng lớp lao động dường như nhạy cảm hơn. Điều này có vẻ cũng đang xảy ra trong trận đại dịch hiện nay: các nhà hoạch định chính sách trên toàn thế giới tương đối ít quan tâm đến việc giảm nợ công hoặc ngăn chặn lạm phát so với những nỗ lực nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Một nghiên cứu mới từ ba học giả của Trường Kinh tế London (LSE) cũng cho thấy rằng Covid-19 đã khiến mọi người trên khắp châu Âu trở nên ác cảm hơn với sự bất bình đẳng.
Trong một số trường hợp, những nỗi bất bình đè nén như vậy đã bùng nổ thành các cuộc khủng hoảng chính trị. Các trận đại dịch thường phơi bày và làm nổi bật những bất bình đẳng đã tồn tại từ trước, khiến những người ở bên phía thất thế trong cuộc mặc cả phải tìm cách lập lại thế cân bằng. Theo một nghiên cứu thì dịch Ebola trong giai đoạn 2013-2016 đã làm tăng 40% bạo lực dân sự ở khu vực Tây Phi. IMF gần đây cũng có bài nghiên cứu về ảnh hưởng của 5 đại dịch, trong đó bao gồm Ebola, SARS và Zika, tại 133 quốc gia kể từ năm 2001. Họ phát hiện ra rằng các đại dịch đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể tình trạng bất ổn xã hội. “Có lý do để tin rằng, khi đại dịch qua đi, bất ổn có thể bùng phát trở lại ở những địa điểm mà nó đã từng xảy ra trước đây”, các nhà nghiên cứu viết trong một công bố khác của IMF. Bất ổn xã hội dường như sẽ lên đến đỉnh điểm hai năm sau khi đại dịch kết thúc. Hãy tranh thủ tận hưởng quả ngọt từ sự bùng nổ kinh tế sắp đến trước khi tình hình chuyển biến sang một hướng khác. (NCQT)