Thế giới đã mất 70% số cá mập kể từ năm 1970
Một nghiên cứu mới đây, được thực hiện bởi Global Shark Trends Project và đăng tải trên trang Nature hôm Thứ Tư vừa qua, cho biết số lượng cá mập và cá đuối sinh sống trong các đại dương trên thế giới đã giảm hơn 70% kể từ năm 1970.
Lý do chính dẫn đến sự sụt giảm chóng vánh này, theo các tác giả, là vì nạn đánh bắt tràn lan. Trong quãng thời gian nói trên, nghiên cứu phát hiện ra “áp lực đánh bắt tương đối” – một khái niệm dùng để tính tỉ lệ cá mập và cá đuối bị ngư dân đánh bắt so với tổng số cá thể của chúng trên toàn cầu – đã tăng gấp 18 lần.
Đó là một ví dụ đáng sợ về thảm hoạ tuyệt chủng đang xảy ra trên khắp hành tinh, và có thể tạo nên một tác động rất lớn đến các hệ sinh thái khắp thế giới nếu chúng ta không thay đổi được cục diện.
Các tác giả, vốn đến từ nhiều nơi trên thế giới và đã cùng nhau thực hiện nghiên cứu trong 10 năm, đã thu thập dữ liệu về các chủng loài cá mập và cá đuối phổ biến nhất, tất cả đều sinh sống ở vùng nước mở ở xa ngoài thềm lục địa. Họ đặt mục tiêu xác định tình trạng của các chủng loài này dựa trên hai chỉ số đưa ra bởi Công ước Đa dạng Sinh học của Liên Hợp Quốc.
Đầu tiên, chỉ số Living Planet, theo dõi sự biến động dân số toàn cầu của các loài kể từ năm 1970, và thứ hai, chỉ số Red List, theo dõi nguy cơ tuyệt chủng của các loài dựa trên tình trạng dân số của chúng và những mối đe doạ chúng phải đối mặt trong tự nhiên. Những chỉ số này cũng liên quan đến các mục tiêu quốc tế về sự thịnh vượng của con người.
“Những chỉ số này góp phần vào việc đánh giá quá trình hướng đến những mục tiêu Đa dạng sinh học và Phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc” – Nathan Pacoureau, tác giả chính của nghiên cứu và là một nhà nghiên cứu sinh học tại Đại học Simon Fraser ở British Columbia, cho biết
Các tác giả đã chọn ra 31 loài cá mập và cá đuối phổ biến nhất thế giới để phục vụ nghiên cứu. Nhưng kể cả khi đã lặn ngụp trong hàng đống tài liệu khoa học và các bản báo cáo trước đây của chính phủ, họ nhận ra chỉ có thể tiến hành phân tích chỉ số Living Planet đối với 18 trong số đó bởi thiếu dữ liệu lịch sử dân số đầy đủ đối với 13 loài còn lại.
Sau khi thu thập 57 bộ dữ liệu với thông tin thời gian cụ thể về 18 loài và được đánh giá bởi các chuyên gia thuộc Hiệp hội Quốc tế về Bảo tồn Tự nhiên của Liên Hợp Quốc, các tác giả đã lập nên bảng thông tin về số lượng từng loài trong từng năm trong suốt 50 năm qua.
Trung bình, nghiên cứu cho thấy loài cá mập đã sụt giảm đến 71% dân số kể từ năm 1970, với tỉ lệ trung bình 18,2% mỗi thập kỷ.
Dựa trên một bảng thông tin do dự án Sea Around Us tạo nên tại Đại học British Columbia, các tác giả đã sử dụng dữ liệu về sự sụt giảm dân số loài cá mập qua thời gian và sơ đồ tình hình đánh bắt cá để xác định rõ rằng đánh bắt cá chính là nguyên nhân lớn nhất khiến các loài động vật đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
“Trong 50 năm qua, dân số con người và hoạt động đánh bắt cá đã tăng gấp đôi, trong khi số lượng cá mập chúng ta bắt được đã tăng gấp ba” – Pacoureau nói. “Kết hợp với thông tin về độ hiếm ngày càng tăng của chúng, bạn sẽ thấy áp lực đánh bắt tương đối đối với cá mập và cá nhám đen hiện cao gấp 18 lần so với năm 1970”
Các tác giả đã tìm hiểu tình trạng hiện tại của 31 loài cá mập mà ban đầu họ muốn đưa vào nghiên cứu thông qua Red List của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế, vốn là danh sách toàn diện nhất thế giới về các loài động thực vật đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Hệ thống sẽ đánh giá mức độ bị đe doạ của các loài dựa trên tỉ lệ sụt giảm dân cư và phân bố địa lý của chúng.
Thật vậy, những gì các nhà nghiên cứu phát hiện ra chỉ có thể miêu tả bằng từ “ảm đạm”: theo các tiêu chí của Red List, 3/4 các loài được xem xét trong nghiên cứu nằm trong nhóm “bị đe doạ tuyệt chủng”.
Cá mập bị săn để lấy thịt và dầu gan cá. Elasmobranchii – hay một loại cá sụn giống cá mập – đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi vấn nạn đánh bắt quá mức bởi chúng sinh quá ít. Thêm nữa, chúng không được bảo vệ tốt.
Cá mập từ lâu đã luôn bị “cho ra rìa” khi nhắc đến những hình thức bảo vệ nghiêm ngặt hơn, kể cả khi những bộ công cụ đánh bắt đã qua sử dụng còn sót lại sau những phi vụ đánh bắt thương mại tiềm ẩn nguy cơ thậm chí còn lớn hơn đối với chúng.
“Các tổ chức quản lý hoạt động đánh bắt cá quốc tế hiếm khi lắng nghe những lời khuyên khoa học và không ưu tiên bảo vệ cá mập và cá đuối” – Pacoureau nói.
Sự biến mất của các loài cá mập là vấn đề đặc biệt đáng quan ngại, bởi nhiều trong số chúng là những kẻ săn mồi đứng trên đỉnh của chuỗi thức ăn dưới nước, có nghĩa chúng có sức ảnh hưởng lớn đến cấu trúc của các hệ sinh thái. Để bảo vệ chúng, các nhà nghiên cứu kêu gọi các chính phủ phải ngay lập tức triển khai những chính sách cứng rắn hơn liên quan đánh bắt cá trên các đại dương.
Cụ thể, các tác giả đề xuất lãnh đạo các quốc gia nên đưa ra giới hạn đánh bắt và thậm chí cấm đánh bắt các loài bị đe doạ tuyệt chủng nghiêm trọng nhất, và xem xét quản lý việc sử dụng các trang thiết bị đánh bắt nhằm hạn chế tình trạng cá mập vô tình bị giết chết trong khi đánh bắt các loài hải dương khác.
Có những bằng chứng cho thấy khi được thực thi đúng đắn, các chính sách nêu trên sẽ mang lại hiệu quả. Nghiên cứu nhấn mạnh rằng dân số loài cá mập trắng đã sụt giảm 70% trong hơn 50 năm qua, nhưng lệnh cấm đánh bắt tại một số khu vực đang giúp dân số loài này hồi phục.
Ngôi trường nghèo tận dụng mảnh sắt cũ làm trống trường: Khi ‘tiếng trống’ vang lên, một vị chuyên gia đã nhận ra điều kỳ diệu
Các nhà nghiên cứu còn đang kêu gọi các nhà khoa học và chính phủ trên thế giới chú ý hơn đến cá mập. Pacoureau nói rằng những tiêu chuẩn đánh giá của Liên Hợp Quốc về tình trạng đời sống của các loài động vật thường được sử dụng để phân tích các sinh vật trên đất liền.
Những sinh vật sống sâu dưới đáy đại dương thường bị bỏ quên, nhưng nghiên cứu chỉ ra rằng, elasmobranchii có lẽ là một trong số những loài động vật bị đe doạ nghiêm trọng nhất Trái đất.
“Dữ liệu này từng chỉ áp dụng đối với các loài thú có vú, chim, và lưỡng cư, nhưng lần đầu tiên từ trước đến nay, chúng tôi đã có thể chỉ ra những hệ quả đáng báo động của tình trạng đánh bắt quá mức trên đại dương thông qua sự sụt giảm đáng kể của một vài trong số những cư dân đặc trưng nhất của nơi này” – Pacoureau nói.
“Đó là một bước tiến lớn về mặt khoa học đối với con người và các sinh vật đại dương – một bước tiến mà các nhà hoạch định chính sách của chúng ta không nên ngó lơ nữa”. (VBF)