Saturday, November 23, 2024

Nhân Quyền

The Vietnamese Newspaper

Lý Do Then Chốt Dẫn Đến 30-04-1975

I/ Một biến cố lịch sử xảy ra quá bất ngờ

Đúng vậy, sau gần nửa thế kỷ năm nhìn lại vẫn thấy biến cố 30-04-1975 xảy ra quá bất ngờ đối với toàn thể dân VN chúng ta. Bằng chứng hiển nhiên là rất nhiều cấp lãnh đạo VNCH trong chánh quyền và trong quân đội không ngờ được nên đành phải bị bắt đi tù cải tạo cả hàng chục năm để rồi chết dần mòn trong rừng thiêng nước độc. Nói chi đến người dân bình thường thiếu thông tin của cả 2 miền Nam Bắc tất cả không ai cảm thấy hoặc đoán trước được chuyện sẽ xảy ra. Sự thực này chúng ta có thể đọc thấy rõ trên các tài liệu của 2 miền.
Kinh nghiệm cho thấy nếu có thế lực nào “âm mưu” gây ra biến cố bất ngờ đó thì họ đã biết một thời gian dài trước khi xảy ra.

Thời gian trôi qua gần nửa thế kỷ nên đã có nhiều chi tiết quan trọng tiết lộ ra và nhứt là gần đây có những chuyện xảy ra “tương tự” trong thời TT Trump khiến chúng ta có thể so sánh tạm đưa ra những nhận xét có bằng chứng và lý luận hợp lý về biến cố lịch sử 30-04-1975.
Trong tinh thần tôn trọng sự thực, tất cả chi tiết đưa ra dựa vào chủ trương “nói có sách mách có chứng” để mọi người đều có thể dễ dàng kiểm soát hư thực. Quan trọng nhứt là xem “ngòi nổ” nào trực tiếp đã gây ra biến cố lịch sử 30-04-1975.

II/ Điểm đặc biệt của các biến cố lịch sử có tính cách “bất ngờ”

Đó chính là có cùng mẫu số chung: Các biến cố đều được thực hiện qua những âm mưu cực kỳ bí mật.

Đặc tính này, trước nay trên 2000 năm, vào cuối đời Đông Châu Liệt Quốc đã được một tư tưởng gia xuất sắc là Hàn Phi Tử trình bày với vua Tần. Ông đã giải thích hợp lý được về chuyện các vị vua trong lịch sử Trung Hoa bị chết bí ẩn quá trẻ hoặc bị soán đoạt mất ngôi. Ông cho rằng các vị vua đó bị những người tin cậy nhứt như Hoàng Hậu, Thái Tử hoặc quan cầm quyền lập âm mưu hãm hại để đoạt ngôi vua. Cho nên ông này đã khuyên vua Tần đề phòng những người thân tín chung quanh (xem Nguồn 1 phía dưới bài). Chính vì vậy triều đại Nguyễn Gia Long ở VN đã học được điều này và thực hiện ngay Lệ “bất tứ” bao gồm:

1. Bất thiết tể tướng (quan chức, không lập Tể Tướng)

2. Bất thủ Trạng nguyên (thi cử, không lấy Tạng nguyên)

3. Bất lập Hoàng hậu (không lập Hoàng hậu)

4. Bất phong Đông cung (không phong Đông cung Thái tử)

Tương tự rất nhiều biến cố lịch sử quan trọng cho thấy đã được những âm mưu cực kỳ bí mật hoạch định. Chẳng hạn cuộc ám sát Thái tử Franz Ferdinand của Áo Quốc đã gây ra Thế Chiến Thứ Nhứt hoặc 2 cái chết bí ẩn của anh em TT Kennedy mà thế lực đằng sau cho đến nay vẫn chưa điều tra ra.

III/ Những quan điểm về biến cố lịch sử 30-04-1975

Ngay sau khi biến cố xảy ra đã có nhiều quan điểm khác nhau về nguyên nhân tạo ra sự sụp đổ “bất ngờ” của miền Nam VN. Nhưng với thời gian trôi qua nhìn kỹ lại thì phần lớn tập trung lại có cùng một quan điểm chung là viện trợ Mỹ – nhứt là về quân sự – dành cho miền Nam VN bị cắt giảm mạnh khiến cho quân đội VNCH không còn đủ xăng nhớt và đạn dược để chiến đấu. Nhứt là quyết định của Quốc Hội Mỹ ngăn chặn món tiền 700 triệu USD về viện trợ vũ khí với lý do là: “cho Việt Nam Cộng Hòa bao nhiêu cũng không đủ, vậy giữ lại để tiết kiệm” (xem Nguồn 2). Chính tin tức về quyết định hoàn toàn bất lợi này đã khiến cho tinh thần của miền Nam VN xuống thấp và dẫn đến sự sụp đỗ bất ngờ.

Quan điểm chung này được thấy trong các tài liệu được viết ra từ cấp lãnh đạo của 2 miền Nam, Bắc VN và Mỹ. Tiêu biểu điển hình:

  • TT Nguyễn Văn Thiệu trong bài phỏng vấn duy nhứt sau 30-04-1975 do tuần báo thiên tả Der Spiegel (Phản ảnh) tại Tây Đức thực hiện vào tháng 12 năm 1979 (xem Phụ đính 3 phía dưới bài)
  • Tướng Văn Tiến Dũng trong tác phẩm “Đại Thắng Mùa Xuân” cho biết Hà Nội thấy tình trạng thiếu quân viện cho Sài Gòn nên đã họp ra quyết định tiến đánh ngay, thay vì dự định sẽ đánh vào năm 1976 trong dịp bầu cử TT Mỹ như họ đã làm hồi năm 1968 (Tết Mậu Thân 68) và năm 1972 (Mùa Hè Lửa Đỏ 72)
  • Tướng Westmoreland cũng đề cập quan điểm này trong hồi ký “War in Vain? (A Soldier Reports)” và lên tiếng xin lỗi quân dân miền Nam VN trong ngày Quân Lực 1987 (xem Nguồn 3)

IV/ Âm mưu bí mật tạo ra biến cố lịch sử 30-04-1975

Nhưng – như phần trên đã trình bày – biến cố 30-04-1975 xảy ra rất bất ngờ và kinh nghiệm lịch sử từ ngàn năm qua đã chứng minh ắt phải được thực hiện qua âm mưu cực kỳ bí mật.
Nhờ phương tiện truyền thông rộng rãi – nhứt là internet – đã dần dần cho thấy ai là tác giả của âm mưu bí mật này.

Thực vậy, qua trang web của tờ Huffington post vào ngày 21/12/2008 đăng tải cho thấy chính Kissinger đã bày kế “độc” này cho Nixon hồi năm 1972  như sau:

“Chúng ta phải tìm ra một phương thức nào đó để giải quyết mọi chuyện trong một hai năm, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng” (nguyên văn: “We’ve got to find some formula that holds the thing together a year or two,” Kissinger told Nixon. “After a year, Mr. President, Vietnam will be a backwater.” (xem Nguồn 4))

Quả nhiên sau đó chừng một năm, Kissinger đã hoàn thành Hiệp định Paris 1973 và dùng mọi thủ đoạn kể cả hăm dọa ám sát, bắt ép cấp lãnh đạo miền Nam VN phải ký kết.
Kissinger còn biết rõ là miền Nam VN chỉ được viện trợ nhỏ giọt thì sẽ sụp đỗ liền. Trên trang web của tờ New York Times vào ngày 21-08-2001 đã đăng tải như sau:

Kissinger được John Ehrlichman (phụ tá của TT Nixon) hỏi rằng:
“Ông có thể xác định được miền Nam VN có thể sống sót theo Hiệp định này trong bao lâu?”

Kissinger đã trả lời:
“Tôi nghĩ rằng nếu họ may mắn, họ có thể nắm giữ trong một năm rưỡi.”

Khi phụ tá của Kissinger là John Negroponte cho rằng Hiệp định không phải là lợi ích tốt nhất cho miền Nam Việt Nam, Kissinger hỏi ngược lại:
“Anh có muốn chúng ta ở lại đó mãi mãi không?”

(nguyên văn: Kissinger was asked by the assistant to the president, John Ehrlichman, “How long do you figure the South Vietnamese can survive under this agreement?” Ehrlichman reported that Kissinger answered, “I think that if they’re lucky they can hold out for a year and a half.” When Kissinger’s assistant John Negroponte opined that the agreement was not in the best interests of South Vietnam, Kissinger asked him, “Do you want us to stay there forever?” (xem Nguồn 5)

Chứng cớ rõ ràng trên giấy trắng mực đen ai cũng đọc được – chớ không phải là thuyết âm mưu như thường được biện minh – cho thấy mưu kế này do Kissinger bày ra thuyết phục Nixon vào năm 1972 để thực hiện Hiệp định Paris 1973 nhằm “bức tử” miền Nam VN vào 30-04-1975 tiến hành đúng như thời gian đã dự trù nói trước. Tất cả những diễn tiến chung quanh từ vụ cúp viện trợ cho đến di tản cô nhi và vợ con các nhân vật cao cấp của miền Nam VN chỉ là kịch bản che mắt dư luận và nạn nhân miền Nam VN mà thôi.

V/ Kissinger một mình thực hiện âm mưu “bức tử” miền Nam VN

Có 2 ý kiến về nghi vấn này:

1. Ý kiến đầu tiên cho rằng Kissinger “đơn thương độc mã” làm chuyện này và với tư cách làm quân sư cho TT Nixon nên có đầy đủ quyền lực và phương tiện để hoàn thành âm mưu này. 

2. Ý kiến thứ nhì cho rằng Kissinger là người gốc Do Thái cho nên theo kinh nghiệm lịch sử 2000 năm qua họ có đặc tính luôn luôn làm việc chung chặt chẻ và đoàn kết với nhau. Đặc biệt là có Linh mục Cao Văn Luận, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Bác sĩ Đặng Vũ Ái  … đã nêu ra nghi vấn có thế lực tài phiệt Wall Street (gốc Do Thái) đứng sau điều khiển Kissinger và dùng hệ thống truyền thông “dòng chính” quốc tế yểm trợ cho âm mưu “bức tử” miền Nam VN để Mỹ rảnh tay rút về yểm trợ và bảo vệ Do Thái tại Trung Đông. Sự kiện đáng chú ý là  Quốc hội Mỹ (khuynh hướng thân Do Thái) đã cương quyết ngăn chặn 700 triệu USD viện trợ vũ khí cho miền Nam VN, nhưng sau biến cố 30-04-1975 lại tặng toàn bộ số tiền đó viện trợ cho Do Thái (xem Nguồn 2 và Phụ đính 1). 

Riêng về phía Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm họa 30-04-1975. Vào năm 1982, Giáo sư Huy cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Nhờ đi tham dự Hòa đàm Paris (1968), Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhận xét rằng Kissinger có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng (“đi đêm”!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Vào năm 2004, Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa (thành viên trong Phái đoàn Quân Sự Bốn Bên VN) minh chứng sự kiện này trong Hồi ký “Cuối đời binh nghiệp” khi nhắc lại lời của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nguyên văn như sau:

” …ngay lúc đó (cuối năm1969) Hoa Kỳ (hay đúng hơn là Kissinger) đã có quyết định bỏ rơi số phận của đồng minh Việt Nam Cộng Hòa rồi, và coi như chúng ta đã mất nước kể từ khi chúng tôi bị đưa vào ngồi ở ‘bàn hội nghị’ ở Paris (1968)” (xem Nguồn 6)

Ông bà mình thường nói đến sức mạnh ghê gớm của đồng tiền “Có tiền mua tiên cũng được”. Cho nên hiện tượng tài phiệt “nuôi dưỡng” tầng lớp trí thức phục vụ cho quyền lợi cho mình, thực ra đã có trên 2000 năm trước. Trong giai đoạn cuối thời Đông Châu Liệt Quốc ở Trung Hoa đã xuất hiện tầng lớp tài phiệt làm chuyện đó. Nổi tiếng nhứt với nhân vật Mạnh Thường Quân “nuôi dưỡng” tiếp đãi đến vài nghìn tân khách để đạt đến chức vụ Tể Tướng (xem Nguồn 7). Còn nhân vật Lã Bất Vi bỏ tiền đầu tư “nuôi dưỡng” vua Tần lúc còn long đong hàn vi để sau này trở thành nhân vật nắm quyền sanh sát của nước Tần (xem Nguồn 8)

VI/ Tại sao thế lực tài phiệt Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?

Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14-5-1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.

Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm “lá bùa hộ mạng”. Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan… , nhưng luôn luôn “sống chết” hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại nhiều lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1.3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa. Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực tài phiệt Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của họ.

Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực tài phiệt Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.

VII/ Kế hoạch thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam VN

Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 – 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30-4-1975.

Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.

Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giả, Đồng Xoài, Đức Cơ… bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi (thổi phồng vụ Mỹ Lai và vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ – đa số gốc Do Thái quản trị – khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác.

Một nước cờ vô cùng hữu hiệu là họ dùng Tướng độc nhởn Moshe Dayan – Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái – đột ngột qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến “hành quân” chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi VN vì không thể thắng cuộc chiến này được (rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy!).

Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson.

Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines – South Vietnam 1966

Bắt đầu từ đó, phong trào phản chiến càng ngày càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc cơ hội thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng đắc cử Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh quốc gia.

Thế lực tài phiệt Wall Street còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (đưa người bạn thân Bob Haldeman vào làm chức vụ vô cùng quan trọng Chánh văn phòng Phủ Tổng Thống) … Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam.

Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.

VIII/ Thế lực gốc Do Thái thực sự như thế nào trong nước Mỹ?

Chúng ta chắc chắn không nắm vững vấn đề này bằng những người hoạt động trong chính trường Mỹ leo được lên tới chức vụ Tổng Thống. Điển hình là quan điểm của TT Nixon và TT Trump:

1. Tổng Thống Nixon trong cuốn ghi âm “lén” tại Tòa Bạch Ốc công bố vào năm 1999 – được đăng tải trên trang của tờ Washington post vào ngày  6-10-1999 – đã nhận xét là thế lực gốc Do Thái có mặt khắp nơi trong chính quyền Hoa Kỳ, thủ đô Washington đầy nhân sự gốc Do Thái và cầm đầu các phong trào phản chiến VN (nguyên văn: Nixon complained “The Jews are all over the government, Washington is full of Jews” (xem Nguồn 9)

2. Còn phía TT Trump đã làm một chuyện hi hữu chưa bao giờ ứng cử viên TT Mỹ nào dám làm. Đó là tố cáo thế lực tài phiệt gốc Do Thái đã hối lộ và tài trợ “ma giáo” cho ứng cử viên đối nghịch. Ông đã phổ biến hình ảnh tố cáo Bà Clinton tham nhũng nhận tiền của thế lực tài phiệt gốc Do Thái qua hình chụp trước đống tiền với ngôi sao David 6 góc của Do Thái.

Screen grab of Donald Trump’s tweet of an image of Hillary Clinton with the words “Most Corrupt Candidate Ever” on a Star of David-like form. July 2, 2016.

Cho nên cho đến nay, TT Trump là vị Tổng Thống đặc biệt nhứt của nước Mỹ luôn luôn bị giới truyền thông dòng chính tấn công dữ dội trên mọi chuyện, dù có làm đúng có lợi cho đất nước Mỹ đi nữa. Điều này liên tưởng đến trường hợp tương tự đã xảy ra cho miền Nam VN bị đánh phá khủng khiếp trên mặt trận truyền thông Mỹ vào giai đoạn từ năm 1966 – 1975.

Bởi vậy dư luận cho rằng giới truyền thông dòng chính này phần lớn do nhân sự gốc Do Thái điều khiển (xem Nguồn 10). Dĩ nhiên còn nhiều tài liệu khác cho thấy thế lực tài phiệt gốc Do Thái có ảnh hưởng quan trọng đến chính trường Mỹ và Thế giới (xem Phụ đính 2)

IX/  “Ngòi nổ” đã khiến cho biến cố lịch sử 30-04-1975 phải xảy ra.

Đó chính là một sự kiện rất quan trọng đã khiến VNCH bị mất vào ngày 30-04-1975. Số là trong cuộc bầu cử quốc hội giữa kỳ vào ngày 5/11/1974, sau vụ xì cang đan Watergate (1972 – 1974) Đảng Dân Chủ Mỹ phản chiến đã thừa thắng chiếm đa số tuyệt đối trên 2/3 trong Quốc Hội Mỹ nên họ đã thẳng tay ngăn chận không cho viện trợ quân sự cho VNCH. Chính vì vậy quân đội VNCH không còn đầy đủ võ khí và mất tinh thần vì quyết định bỏ rơi nên mới xảy ra thảm trạng 30-04-1975.

Xem: https://en.wikipedia.org/wiki/1974_United_States_elections

Sự kiện lịch sử rất quan trọng này đã được Bác sĩ Đặng Văn Sung (cũng là Thượng nghị sĩ) sau chuyến công du Hoa Kỳ hồi đầu năm 1975 đã lên tiếng báo động đỏ khẩn cấp trên báo Chính Luận là “gió đã đổi chiều” rất nguy hiểm cho VNCH.

X/ Kết luận  

Nhìn lại thấy có 2 điểm đáng chú ý vì có liên hệ chặt chẽ với nhau:

1. Như đã nêu trên, chỉ có Kissinger mới biết rõ khi ký kết xong Hiệp định Paris 1973 thì miền Nam VN chỉ sống sót khoảng một năm rưỡi. Thế mà chỉ một năm sau đó Trung Cộng đã ra tay đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của VN và Mỹ đã yên lặng không hề can thiệp hoặc lên tiếng phản đối. Phải chăng Trung Cộng đã được Kissinger thông báo “ngầm” biết được thời hạn này để sau này khỏi phải gặp khó khăn khi Hà Nội chiếm được miền Nam VN?

2. Trung Cộng luôn lên tiếng xác nhận coi Kissinger như một người bạn thân. Bù lại lúc nào Kissinger cũng lên tiếng ủng hộ Trung Cộng. Điển hình nhứt là tại Đại Học Columbia University vào cuối tháng 9/2017, Kissinger phát biểu thúc giục hợp tác lớn với Trung Quốc và tiếp tục chính sách “One-China” để chiều lòng Trung Cộng (xem Nguồn 11). 

Rõ ràng hơn hết là lúc Trung Cộng bối rối không hiểu rõ Tân Tổng Thống Trump như thế nào nên đã “triệu tập” Kissinger qua Bắc Kinh. Mặc dù già cả đã 93 tuổi và không giữ chức vụ gì cũng như từng chống đối mạnh mẽ TT Trump trong lúc ra tranh cử, Kissinger vẫn bay qua đó vào ngày 2/12/2016 để gặp Tập Cận Bình “báo cáo” (xem Nguồn 12).

Kissinger gặp Tập Cận Bình…

Qua đó có nghi vấn cho rằng giữa Kissinger và Trung Cộng có mối liên hệ rất khác thường: Có thể Kissinger làm việc lobby “ngầm” vận động cho Trung Cộng hoặc là đại diện cho quyền lợi của giới tài phiệt gốc Do Thái  làm ăn tại Trung Cộng ? (xem Nguồn 13).

Biết đâu trong tương lai sẽ có thêm những tiết lộ mật rõ ràng hơn về vai trò của Kissinger và thế lực tài phiệt gốc Do Thái. Nhờ đó bí ẩn 30-04-1975 càng được soi sáng thêm.

Trước nay đúng 10 năm, cũng trong quan niệm “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, anh chị em chúng tôi gồm 11 người tại Âu Châu và Bắc Mỹ gắng sức thực hiện một cuốn phim dài 100 phút nói về “Đại Họa Mất Nước” sau biến cố lịch sử 30-04-1975 khi thấy đất nước chúng ta càng ngày cùng bị láng giềng Trung Cộng thao túng cho người ào ạt vào khắp nơi tại VN với chiến lược “tằm ăn dâu“.

Phim “Đại Hoạ Mất Nước”

Trần Nguyên / Người Xứ Bưởi

(Đặc San Lâm Viên)

Tháng 4, 2020

************

Tham khảo:

Nguồn 1: https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0n_Phi

Nguồn 2: http://www.vietnamvanhien.org/SuTanDocCuaHenryKissinger.pdf

Nguồn 3: Westmoreland: On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys.

https://www.vlink.com/nlvnch/vinhbiet_westmoreland.html

Nguồn 4: Kissinger nói với Nixon. “Sau một năm, thưa Tổng thống, Việt Nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng.” (“We’ve got to find some formula that holds the thing together a year or two,” Kissinger told Nixon. “After a year, Mr. President, Vietnam will be a backwater.”)

https://www.huffingtonpost.com/stanley-kutler/kissinger-unplugged_b_145278.html

Nguồn 5: “Kissinger được John Ehrlichman (trợ lý của TT Nixon) hỏi rằng: “Ông có thể xác định được miền Nam VN có thể sống sót theo Hiệp Ước này trong bao lâu?”. Kissinger đã trả lời, “Tôi nghĩ rằng nếu họ may mắn, họ có thể nắm giữ trong một năm rưỡi.”

Nguồn 6: Giáo sư Huy: ” …ngay lúc đó (cuối năm1969) Hoa Kỳ (hay đúng hơn là Kissinger) đã có quyết định bỏ rơi số phận của đồng minh Việt Nam Cộng Hòa rồi, và coi như chúng ta đã mất nước kể từ khi chúng tôi bị đưa vào ngồi ở “bàn hội nghị ” ở Paris (1968)”

http://nguyentin.tripod.com/dt_duonghieunghia.htm

Nguồn 7: Mạnh Thường Quân tiếp đãi đến vài nghìn tân khách

https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A1nh_Th%C6%B0%E1%BB%9Dng_qu%C3%A2n

Nguồn 8: https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A3_B%E1%BA%A5t_Vi

Nguồn 9: TT Nixon: Thế lực gốc Do Thái có mặt khắp nơi và cầm đầu các phong trào phản chiến (Nixon complained “The Jews are all over the government, Washington is full of Jews”)

http://www.washingtonpost.com/wp-srv/politics/daily/oct99/nixon6.htm

Nguồn 10: Nhân sự tài phiệt gốc Do Thái kiểm soát 75 % truyền thông Mỹ:

Nguồn 11: Kissinger tiếp tục chính sách “One-China” để chiều lòng Trung Cộng

http://www.scmp.com/news/china/policies-politics/article/2112957/kissinger-urges-us-boost-cooperation-beijing-massive

Nguồn 12: Kissinger qua Trung Cộng để trấn an

https://www.upi.com/Top_News/World-News/2016/12/02/Henry-Kissinger-visits-China-to-ease-concerns-amid-Trump-transition/3041480733459/

Nguồn 13: Thế lực tài phiệt Mỹ gốc Do Thái cấu kết ma giáo với Trung Cộng:

http://danlambaovn.blogspot.com/2016/07/co-khi-nao-nguoi-my-goc-do-thai-se-giup.html

Phụ Đính 1: Gs Nguyễn Ngọc Huy & Linh Mục Cao văn Luận tiết lộ: Bí Ẩn 30-4-1975

http://www.vietnamvanhien.org/bian30041975.pdf

Phụ Đính 2: Sức mạnh và thế lực gốc Do Thái

https://www.ngo-quyen.org/a5296/mot-cai-nhin-moi-giao-su-nguyen-ngoc-huy-va-linh-muc-cao-van-luan-tiet-lo-bi-an-30-4-1975-phan-2-

Phụ Đính 3: Phỏng vấn duy nhứt của TT Nguyễn Văn Thiệu sau 30-04-1975

Hòa bình của nấm mồ - Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trả lời phỏng vấn của Spiegel 1979